Thầy giáo làng
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Thầy giáo làng

Diễn đàn của thầy giáo Đoàn Ngọc Khánh
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tên: thầy giáo làng
Số Bài Post :129 Số bài - 65%
Tên: hoanganh
Số Bài Post :39 Số bài - 20%
Tên: dnk2011
Số Bài Post :18 Số bài - 9%
Tên: Old
Số Bài Post :7 Số bài - 4%
Tên: cogiaolang
Số Bài Post :4 Số bài - 2%
Tên: Admin
Số Bài Post :3 Số bài - 2%
Các bài gửi mới nhất Reload
Thủ ảnh tràn lề
Đang tải dữ Liệu
Old
Old
Old
Old
Old
Old
cogiaolang
hoanganh
Tình nghĩa trong ca dao
Đang tải dữ Liệu
hoanganh

Share
 

 Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
thầy giáo làng

thầy giáo làng

Tổng số bài gửi : 129
Join date : 21/11/2011

Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập Empty
Bài gửiTiêu đề: Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập   Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập I_icon_minitimeThu Nov 24, 2011 8:56 pm

Hơn sáu trăm năm đã trôi qua những lời thơ trong Quốc âm thi tập vẫn nóng hổi tình người, hồn nhiên phóng khoáng, sâu sắc thâm thúy, lại gần gũi, thân thuộc với thế hệ ngày nay.
Chúng ta đều biết Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tập thơ tiếng Việt dầy dặn đầu tiên còn lại cho đến nay. Một tập thơ đặc sắc của một thi hào đồng thời là một danh nhân kiệt xuất của lịch sử nước ta. Có khác với Ức trai thi tập, tập thơ chữ Hán của tác giả đầy hào khí và có giá trị cao, Quốc âm thi tập là một minh chứng xứng đáng cho tinh thần dân tộc đầy tự hào về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nền văn học đặc sắc của mình. Với 254 bài, tập thơ lại tập trung biểu hiện tâm trạng muốn sống đời ẩn dật, thanh nhàn, hòa mình vào thiên nhiên nơi quê cũ thân thuộc, nhưng vẫn hàm chứa lòng ưu ái đầy khí phách trong văn thơ Nguyễn Trãi.
Đọc Quốc âm thi tập, chúng ta dễ nhận ra ngay thái độ chủ động chấp nhận tình thế của tác giả vốn quen cảnh sống thôn dã nghèo nàn, thanh bạch mà hồn nhiên, khoáng đạt. Nhà thơ coi đó là đời sống hợp quy luật, thuận đạo trời “Diều bay, cá nhảy, đạo tự nhiên”

Tự nhiên đắp đổi đạo trời…

Cũng đạt xem hay nay có mệnh
Đời cơ tạo hóa mặc tự nhiên.


Cảnh sống “tự nhiên” mang lại phong thái thanh nhàn, tự tại cho người…

Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng

Một phút thanh nhàn trong thưở ấy
Thiên kim ước đổi được hay chăng?

Người tham phú quý, người hằng trọng
Ta được thanh nhàn ta sá yêu.


Chính trong bối cảnh tự do tự tại ấy, đã xuất hiện những vần thơ lâng lâng sảng khoái:

Nước dưỡng cho thanh, từ thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải, lãnh ương hoa

Trong khi hứng động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu thần, đặng đặng ca

Láng diềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh

Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh

Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ
Vầng nguyệt lên thuở nước cường

Mua được thú nhàn trong thưở ấy
Thế gian hay một khách văn chương

“Thú nhà quê” đơn sơ mà thú vị dường nào:
Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan chen vãi đậu kê

Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng
Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về”.

Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao

Khách đến vườn còn hoa lác
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào…


Tập thơ có rất nhiều bài hay khiến người đọc có cảm giác như lạc vào một vườn hoa lộng sắc, ngát hương, thấy đóa nào cũng đẹp, cũng thơm và càng phân vân khi muốn chọn lấy những đóa nào lộng lẫy nhất.
Có những bài hay bởi cám cảnh, sinh tình:

Thương lang mấy khóm một thuyền câu
Cảnh lạ đêm thanh, hứng bởi đâu?

Nguyệt mọc dầu non, kình dội tiếng
Khói tan mặt nước thẫn không lầu

Giang Sơn dạm được đồ hai bức
Thế giới đông nên ngọc một bầu

Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu

Có những bài đượm mùi “thiền”:

Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Giơ tay áo đến tùng lâm.
Rừng nhiều cây rợp, hoa chầy động
Đường ít người đi, cỏ kíp xâm
Thơ dưới tục hiềm câu đới tục
Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
Nắng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm

Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy
Có thân chớ phải lợi danh vậy
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bẻ cây
Cây rợp chồi cành, chim kết tổ
Ao quang mấu ấu, cá nên bầy
Ít nhiều tiêu sái, lòng ngoài thế
Năng một ông này đẹp thú này

Có những bài hay vì thẳng thắn, khí khái:

Mắt hòa xanh, đầu dễ bạc
Lưng khôn uốn, lộc nên từ

Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ
Áo người vô nghĩa, mặc chẳng thà

Khó khăn thì mặc có màng bao
Càng khó bao nhiêu, chí mới hào.

Có bài mượn giọng khoa trương khi bốc hơi men để lộ khẩu khí:

Tài tuy chẳng ngộ, trí chẳng cao
Quyền đến trong tay, chí mới hào
Miệng khiến tửu binh phá lũy khác
Mình làm thi tướng đánh đàn tao
Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng
Chim bắt trong rừng, cá bắt ao
Còn có anh hùng bao nã nữa
Đòi thì vậy, dễ hơn nào!


Đặc biệt nhất có bài toát lên hào khí của văn chương cao đẹp, dõng dạc như một tuyên ngôn sáng tác, mang cốt cách của một cương lĩnh phấn đấu:

Văn chương chớp lấy đôi câu thánh
Sự nghiệp đua gìn phải đạo trang
Trừ độc trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng


Bài thơ khiến chúng ta nhớ đến khí phách hào hùng của Bình Ngô đại cáo, một tác phẩm bất hủ của nhà thơ được coi như một tuyên ngôn độc lập sáng giá của dân tộc ta. Tuy nhiên, Quốc âm thi tập vẫn hàm chứa ít nhiều các cốt cách cơ bản đó của văn chương Nguyễn Trãi. Bàng bạc trong tác phẩm nỗi niềm thao thức khôn nguôi vì dân vì nước “lo trước” suốt đời:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung

Bui có một lòng trung liễn hiếu
Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen.


Càng đọc, chúng ta càng dần dần nhận ra tầm vóc rộng lớn, cao đẹp của tâm tư Nhà thơ, bao quát cả những đạo tự nhiên, đức hiếu sinh, lòng nhân nghĩa, niềm trung hiếu, đến nghĩa đồng bào, lẽ cương nhu, tính khiêm nhường, nết ham học ham làm v.v… Nhiều kinh nghiệm sống, nhiều điều suy ngẫm lắng sâu được đúc kết thành quy luật, thành chân lý cụ thể và thiết thân:

Nào ai dễ có lòng chân thật
Ở thế tin gì miệng đãi bôi

Tích đức cho con hơn tích của
Đua lành cũng thế, mưa đua khôn

Ngọc lành nào có tơ vết
Vàng thực âu chi lửa thiêu
Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi
Khi bão mới hay là cỏ cứng,
Thưở nghèo thi biết có tôi lành

Ở yên thì nhớ lòng xung đột.
Ăn lộc đều ơn kẻ cấy cày

Của thết người là của còn.
Khó khăn phải đạo cháo càng ngon
Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn no mặc bởi hay làm

Xa hoa lơ lửng nhiều hay hết
Hà tiện đâu đang, ít hãy còn

Làm người mưa cậy khi quyền thế
Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe.

Qua nhiều những câu thơ bình dị mà sâu sắc, chúng ta càng nhận ra chân dung quắc thước của một nhà tư tưởng lớn vượt thời đại từng được tôn vinh xứng đáng: “Ức trai tâm thượng quang khuê tảo” (Lê Thánh Tôn). Tuy nhiên, qua Quốc âm thi tập, nhà tư tưởng lớn vẫn không lấn át mà song hành với nhà thi hào. Và xuyên suốt tập thơ vẫn lóng lánh những rung động rất nhạy cảm và tinh tế:

Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt
Vườn kín hoa truyền mới lọt tin
Cành có tinh thần, ong chữa thấy
Tính hay khinh bạc, bướm chẳng gìn
(Đầu xuân đắc ý).

Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hòe hoa chen bóng lục
Thức xuân một điểm, não lòng nhau
(Cảnh hè).


Hình tượng cây chuối đơn sơ, xoàng xĩnh mà gợi cảm làm sao:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, màu thâu đêm
Tình thư một bức, phong còn kín,
Gió nơi đâu, gượng mở xem
(Cây chuối).


Đặc biệt còn có một chùm “thơ tiếc cảnh” gồm 13 bài tứ tuyệt. Đáng chú ý trong đó, có những câu:

Thấy cảnh lòng thơ càng vân vít
Một phen tiếc cảnh, một phen thương

Một tiếng chày đêm đêm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ thở tan vừng

Xuân xanh chừng dễ trác phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên

Còn có cả

Loàn đan ướm hỡi khách lầu hồng.
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dẫu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng


Ý tình xưa thế mà nồng đượm vẻ lãng mạn và hiện đại làm sao!
Có những bài hay đạt tầm vóc vũ trụ:

Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay!
Núi cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay!
Nước mấy trăm thu còn vậy
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn này
Ngoài chừng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay


Hỏi thơ 6 chữ bao quát cả không gian thời gian bỗng kết lại bằng 2 câu bảy chữ, nghe cứ như một tiếng thở dài não nuột. Như đối chiếu, một bài thơ khác cho thấy lòng người dẫu sao vẫn không thể vượt khỏi lòng trời tiêu, biểu cho những quy luật khách quan của tự nhiên:

Lòng người man xúc nhọc đua hơi
Chẳng các nhân sinh giữ chơi
thoi nhật nguyệt đưa qua mấy phút
Áng phồn hoa họp mấy trăm đời
Hoa càng khoe tốt, tốt thì rữa.
Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi
Mới biết doanh hư đà có số!
Ai từng cãi được lòng trời.


Đương nhiên cảnh sống thanh nhàn nơi thôn dã không ít khó khăn:

Càng một ngày càng ngặt đến xương
Ắt vì số mệnh ít văn chương
Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu
Kế hãy bằng quỳ hướng thái dương…
Nhà ngặt bằng ta ai kẻ vì
Khó khăn phải lụy đến thê nhi.
Đắc thì thân thích chen chân đến
Thất sớ láng giềng ngoảnh mặt đi


Nhưng:

Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt
Chê khen mưa ngại tiếng chê khen

Chốn ở trải gian lều lá
Mùa qua chằm bức áo sen
Hoa còn để rụng lam đất
Cửa một đường cài lướt then…

Khó ngặt qua ngày xin sống
Xin làm đời trị mấy đời bằng

Thừa chỉ ai rằng thì khó ngặt
Túi thơ chứa hết mọi giang san


Về mặt hình thức nghệ thuật, Quốc âm thi tập mang sắc thái riêng của một loại thơ thuần Việt, kết hợp thơ 6 chữ với thơ 7 chữ trong các thể tám câu và bốn câu. Trong thể thơ 8 câu, đáng chú ý đến 14 bài có 4 câu 6 chữ, 8 bài có 5 câu 6 chữ, 4 bài 6 câu 6 chữ và 3 bài có 7 câu 6 chữ:

Chụm tự nhiên một tấm lều
Qua ngày tháng lấy đâu nhiều
Gió tựa rèm thay chổi quét
Trăng kề cửa kéo đèn khêu
Làm ăn chẳng quản dưa muối
Áo mặc nài chi gấm thêu
Tựa gốc cây ngồi hóng mát
Lều hiu ta hãy một lều hiu
(7 câu 6 chữ).

Trong thể thơ 4 câu, đáng chú ý đến 8 bài có 2 câu 6 chữ:

Lầm nhơ chẳng bén tốt hòa thanh,
Quân tử kham khuôn được thuở danh
Gió đưa hương, đêm nguyệt tĩnh
Trinh làm của có ai tranh
(Hoa sen- 2 câu 6 chữ);


Rõ ràng tác giả có tài làm thơ 6 chữ.
Bàng bạc suốt tập thơ là ánh trăng thứ ánh sáng huyền ảo như soi rọi lòng thơ.

Rượu đối cầm đâu thơ một thủ
Ta cùng bóng liễn nguyệt ba người…
Bến liễu mới dời thuyền chở nguyệt
Gác văn còn chữa bút đeo hương

Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc
Nước chảy âu khôn xiết bóng non

Có được những câu thơ như:

Khách lạ đến ngàn, hoa chữa rụng
Câu mầu ngâm da, nguyệt càng cao


quả là tuyệt tác Phải chăng câu thơ thần có sức đẩy trăng lên càng cao?

Hạ tuần Tháng 4 Mậu Tý
HOÀNG THANH
Về Đầu Trang Go down
 

Nguyễn Trãi - Quốc âm thi tập

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Bài viết mới cùng chuyên mục

Bài viết liên quan


Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Thầy giáo làng :: Bài học :: Lớp 10 :: Cảnh ngày hè - Nguyễn Trãi-
free counters
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất